ZingTruyen.Top

Chuyen Cu Ha Noi Tap 2 To Hoai

Những phố Hàng Đường, Hàng Ngang bây giờ kích thước chẳng khác xưa mấy, nếu không nhìn mấy cái bảng điện quảng cáo nhấp nháy xanh đỏ của các hiệu buôn đồng hồ ở những căn nhà nông lòng như đồ chơi trẻ con. Mặt đường đôi chỗ vẫn gặp cái nắp gang cống ngầm còn đề tên sở lục lộ thời Pháp. Người thì đông ghế lên, nhưng cái khác là xe đạp, xe máy đan liền khít nhau. Ngày xưa, thì lòng đường vỉa hè chỉ có người đi, người chân đất đi ngược xuôi.

Họa sĩ Ngô Thúc Dung vẽ cho tuần báo Hà Nội Tân Văn in ở phố Hàng Buồm. Anh Vũ Ngọc Phan bảo tôi: "Anh Dung tốt nghiệp loại 1 ở trường Mỹ thuật Đông Dương, bạn cùng khoá với anh Nguyễn Đỗ Cung". Anh Phan muốn gợi sự kính trọng anh Dung ở tôi, đừng có thấy ăn mặc lôi thôi thế kia mà coi thường đâu. Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Gia Trí đương là những mét đỉnh rồi. Nguyễn Đỗ Cung chùm phái lập thể, vẽ cái chân như thân cây chuối, người đi hai vai ngang ra giống con cua bò. Ngô Thúc Dung vẽ cái mu bàn tay to hơn đầu người. Tôi nghĩ: A, trường phái ông Cung mà. Nhưng rồi thấy Dung vẽ báo nào khác ngoài báo của anh Phan rồi về sau, biết Dung nhiều hơn, tôi lại nghĩ: thằng này không biết vẽ, chẳng báo nào thuê.

Cũng không hẳn là tôi "gần chùa gọi bụt bằng anh". Họa sĩ Thịng del chỉ có báo Tiểu thuyết thứ bảy mượn, hoạ sĩ vẽ mặt người nào cũng chéo ba góc. Thế mà ra trường ông ấy cũng đỗ đầu khoá Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương rồi đi làm công chức, cả ngày cả năm ngồi truyền thần phóng to con tằm con nhộng con bướm sở Canh Nông. Mà cái phái lập thể của ông Nguyễn Đỗ Cung, thì tôi thấy người ta khen quá, tôi cũng gật gù tỏ vẻ ta đây sành điệu mà thôi.

Dung bảo tôi:

- Đi bát phố một lúc, được không?

Tôi chẳng có việc gì để chối là không được. Chúng tôi từ nhà in phố Hàng Buồm đi ra. Tôi đã hiểu đi bát phố là chẳng đi đâu, chỉ hết phố nọ sang phố kia. Nhìn nghênh nhìn ngáo rồi nhìn xuống đường thấy chân người, chân mình qua lại chen nhau, những người bát phố, người đi kiếm việc, hóng cái ăn, người đi đến đâu thì đi, nhiều người đi quá, chỉ thấy những chân là chân. Người đàn bà trong làng ra Kẻ Chợ, đôi dép Kẻ Noi quai ngang và nếu là dân thầy hạng còm như chúng tôi, có đôi giày vải bata. Người chân đất thì nhiều, nhiều đến phải nhớ đến tận bây giờ.

Tôi hỏi Dung:

- Chiều rồi, đi nhồi cái gì chứ?

- Tớ chẳng còn xu nào mới phải đi ăn tiệc nhìn thế này.

- Nhịn a?

- Lúc nào có tiền thì ăn đúp.

- Được, tớ thết.

Thật thì tôi cũng chẳng dư tiền mua hai bát cơm úp. Mà tôi nghĩ đến Quyền, có thể Quyền có. Chúng tôi rẽ sang phố Hàng Trống. Phố này đã thưa người đi, có mấy nhà bán đồ thêu ren, hiệu sách cũ. Tạt qua cửa đền, đến một cửa hàng bằng một sải chân bày chụp đèn la liệt như những cái nón culi. Những chụp đèn bằng giấy, bằng lụa tua màu hồng, màu thiên thanh viền vẽ hoa lá. Ở trong nhà, một người vạm vỡ sơ mi trắng cộc tay đương soi gương, ngoẹo cổ ngắm cái cà vạt đen.

- Giới thiệu... Quyền nói to:

- Họa Dung Ngô Thúc, quen rồi. Đã vẽ chụp đèn cho nhà này.

- À...

Hai người đã biết nhau. Tôi nhẹ hẳn người. Tôi nói luôn:

- Đương định đi ăn. Nhưng không đủ tiền.

- Được, được, có tớ.

Quyền chạy ra cửa, sang nhà bên cạnh xem nhờ đồng hồ.

- Năm rưỡi đóng cửa được rồi. Đóng cửa một tí nhá.

Chúng tôi ngồi nhìn Quyền vác những tấm ván cánh cửa lần lượt lắp lên. Tôi hỏi Dung:

- Biết Quyền đã lâu chưa?

- Mỗi một lần. Thắng cha nhớ dai gớm.

- Cái ki ốt Hàng Da của đằng ấy mà treo bán những chụp đèn này cũng hay.

- Có thể. Bảo nó cho tớ mượn mấy cái bày thử.

Quyền đã lên cửa xong. Chúng tôi ra bờ hồ, vào phố Hàng Giò xuống dốc Hàng Kèn, sang bên hồ Thiền Cuông. Chỗ ấy có mấy lều quán cơm, sau lưng trông xuống bãi cỏ lau. Đằng kia là Vân Hồ, nhưng quãng này lầy lội, phải vòng lên Thể Giao mới có lối đi. Thành phố chưa bắc điện tới đây. Trong búi cỏ lau ánh đèn các hàng cơm lung lay như con đom đóm. Mấy quán cơm đầu ghế này khách đi làm bên ga Hàng Cỏ về đầu ô phía Thanh Nhàn, đôi khi có những xe gỗ bò kéo người đầy dưới Phà Đen lên. Ấy thế mà mở suốt sáng bởi những con bạc, những người nghiện rúc ráy trong bụi lau lần ra ăn đêm. Chúng tôi đôi khi chỉ đến ban ngày, nhưng cũng đã khá nhẵn mặt khách hàng ở đây.

Có một cửa hàng treo lủng lẳng cái sỏ và miếng khấu đuôi chó. Tôi hỏi Quyền:

- Vào quán chó làm mấy chén đủ không? Quyền nói:

- Được, nhưng Quyền sì cút[1] không uống rượu và Quyền thương loài vật, con chó là bạn với người, không được ăn thịt chó.

- Thế thì ăn gì?

- Cơm, đậu rán, canh cà chua, như thường lệ.

[1] Sì cút (scout): hướng đạo sinh.

Hai thằng đi theo đều rỗng túi, thế nào mà chẳng được. Ăn nhoáng cái xong chẳng cơn cớ gì để kề cà, chúng tôi trở ra dốc Hàng Kèn lững thững vào ánh đèn bên hè phố. Chẳng ai hỏi ai và cũng không nghĩ đi chơi đâu tối nay.

Đến nhòm khe cửa rạp hát Hiệp Thành xem ghé màn cải lương, lượn lờ nhà thổ ngõ Yên Thái. Nghĩ kể ra thế thôi, những thú chơi suông nhạt ấy cũng chẳng thiết. Mà về nhà tôi trên Bưởi thì xa và đã hết tàu điện, không còn những chuyến tàu vét có thể nhảy lên ngồi boóng sau toa. Đến ki ốt nhà Dung ở chợ Hàng Da thì ôi thôi, ngủ qua một đêm có thể sáng ra đã gãy cả hai khoeo chân. Suốt đêm phải thủ hai thế nằm. Lúc thì khoanh chân lại, lúc phải duỗi ra gác dựng vào vách. Dung thấp người, cứ nằm một kiểu gập đầu gối cuộn hai chân, đêm nào cũng nằm thế. Chỉ có đến nhà Quyền thì nằm thoải mái trên tấm ván cửa hay trên mặt gạch. Phải một nỗi không có màn.

Cái gian bán chụp đèn treo đèn bàn này cũng không phải của Quyền. Quyền trông hàng bán ăn hoa hồng và thợ mộc thợ tiện ở phố Hàng Tiện đem khung đến, Quyền dán lụa hoa rồi lắp bật điện. Chủ nhà đâu, tôi không thấy bao giờ. Lúc nào cũng chỉ một mình Quyền, sáng ra thì xuống bờ hồ, rửa mặt, còn ỉa đái bờ bụi hay nhờ nhà ai thì tùy. Mặc dầu, thế cũng đã phong lưu nhất hội.

Đêm ấy, mưa sầm sập đến sáng. Mưa rào trong thành phố, tiếng mưa nghe mỗi tai mỗi khác nhau, có lúc liên hồi soang soảng như đập thùng sắt Tây. Khác mưa đêm ở làng, trong bóng tối tiếng nước rì rào bốc lên mùi rơm rạ ải, mùi hoa lý thơm ủng. Nhưng chỉ một lát, đã dịu cơn oi nồng, nhờ thế ngủ ngay được và đỡ muỗi, sáng ra mặt mũi không lấm tấm mẩn đỏ vết muỗi đốt.

Quyền đã cho Dung xách về mấy chiếc chụp đèn. Cái ki ốt của Dung dựng đứng như chiếc thùng gỗ vuông, trông sang bãi cỏ chợ Hàng Da. Trên bãi, thỉnh thoảng lão Tây lùn ra kê bàn cò quay mở số trúng thưởng cái khăn mùi xoa, lọ nước hoa con voi. Gánh xiếc Lê Thanh Các về mấy hôm, có lần có cả ban xiếc nước Anh với hai con la thồ đồ lề lưng phủ bạt về cắm cọc căng bạt. Nó diễn đến hôm thằng chủ cắt cổ tự tử thì bỏ đi. Chẳng biết tại say rượu hay tại sao.

Cái ki ốt của Dung bốn mặt sơn xanh, lỗ cửa vuông nhìn thông thống. Dung bày bán những ống bút, trổi quét vôi trần nhà, gói bột màu. Có khi bày tranh phong cảnh vẽ cái nhà tranh giữa hồ, dưới gốc cau có cầu đi vào, đằng xa núi xanh và chim bay. Chắc ai để nhờ bán.

Tôi bảo:

- Treo bảng vẽ truyền thần có vẻ ăn tiền hơn. Dung xua tay:

- Họa sỹ không vẽ truyền thần.

Nhưng cứ như Dung vẽ cái tay to hơn cái đầu người thì chưa chắc Dung vẽ được truyền thần. Bốn mặt trống tơ hơ, thế mà có then sắt, khoá giữ cẩn thận. Không biết quần áo Dung cất ở đâu, chẳng thấy các bọc, cái hòm chỗ nào.

Hỏi thì Dung nói:

- Mày là lý toét, chẳng biết gì cả.

- Biết thế nào?

- Mùa rét đi lấy quần áo gửi nhà cầm đồ Vạn Bảo về, việc gì phải giữ. Bây giờ đương mùa hè, có nhất bộ, tối đi ngủ thì giặt. Thế mà cũng phải hỏi.

Bốn cái chụp đèn Quyền bày ở bốn cửa. Hai chụp đèn treo, hai chụp đèn bàn để trên mỏm hòn gạch chỉ ghếch lên. Đi cả bốn phía đều trông thấy, vui mắt.

Một hôm tôi đến, chẳng thấy còn cái chụp đèn nào.

- Ô, bán hết rồi à?

- Mất cắp hết thì có. Không có con mắt đằng lưng, cứ trông cửa trước thì nó nẫng cửa sau. Đến năm kháng chiến, phố xá tản cư khắp nơi. Nhưng người ta cũng như con kiến, gặp nhau lại dựng râu lên, chụm lại như chào hỏi, trò chuyện rồi mới lại tăng tả bò đi. Cho nên người quen ai ở đâu thì rồi cũng biết thế nào cũng có lúc gặp, có người gặp. Tôi đã láng máng biết được bè bạn và người quen tản cư vùng nào, công tác ở đâu, ai bị chết bom, ai lại trở về

thành phố. Nghe nói Quyền đã lấy vợ, vợ chồng Quyền tản cư lên Phú Thọ.

Năm ấy, tôi có việc về Gia Điền. Cái việc thì vui, lại cũng nực cười. Tôi đi dự đám cưới họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ. Anh Tỵ ở vùng văn nghệ sĩ tản cư trong khu bốn. Trường Mỹ Thuật được thành lập, anh ra dạy ở Việt Bắc. Bấy giờ anh đã hơi cứng tuổi. Chị ít tuổi hơn, gia đình cũng ở Hà Nội tản cư đi. Có tiếng đồn thổi thế nào đấy, có thể bên nhà gái nghi ngờ phía nhà trai mà hai bên đều đương trong cảnh xa lạ không biết thế nào mà dò la được. Tôi đại diện cơ quan đi dự đám cưới. Tôi có trách nhiệm nói thật là khéo để họ nhà gái biết và tin tôi là bạn chú rể từ thời để chỏm, chú rể chưa lấy vợ bao giờ.

Mọi việc xong xuôi êm đẹp. Hôm về tôi không ra theo đường bờ sông, tôi đi theo đường trong qua làng đồi, qua rừng sơn rừng cọ từ Gia Điền sang Ao Châu. Tôi đã được biết Quyền ở Ao Châu.

Tôi vào xưởng giấy ở Ao Châu hỏi Quyền. Người ta bảo: "Ông Quyền thôi việc rồi. Bác ra ngoài bờ đầm hỏi ông Quyền chài thì ai cũng biết". - "Quyền chài thế nào?" Người ta chỉ cười.

Ao Châu là một vùng đầm nước mênh mông như cả mấy cái hồ Tây bọc quanh một dãy đồi đất. Một cái lều lá gồi dựng bên bờ nước. Quyền cởi trần, da bắt nắng đỏ xậm, vẫn to lớn thế. Chỉ khác một vành ria đen xịt xồm xoàm, và chỏm mũi đỏ quen thuộc nhô lên.

Trong cái lều một gian một trái, một người đàn bà ra chào. Tôi đoán là vợ Quyền. Chị mặc quần thâm, áo trắng nhuộm nâu non cũng như người ở xuôi tản cư lên thường gặp dọc đường và trên chợ.

Quyền nói to:

- Nhà tôi đấy. Chúng tớ sống nghề chài lưới, cũng đủ ăn, hôm nào cũng có cá ra chợ.

Quyền bảo tôi ở nhà nghỉ, Quyền thả cái thuyền đi bắt cá tươi về nhắm rượu. Tôi bảo để tôi theo thuyền với, đi chơi cho vui. Cái thuyền thúng, Quyền ngồi đằng mũi, tay cầm chèo lái, bơi bằng tay kia. Tôi bỏ lưới từng quãng ngắn, Quyền vòng thuyền lấy bê chèo gõ xuống đòn ngang. Tiếng cành cạch xua cá bơi dồn vào lưới.

Quyền kể chuyện.

- Chúng tớ lấy nhau đã năm năm.

- Cũng nghe tin thế.

- Nhưng chắc đằng ấy không biết vợ tớ là nhà thổ ở ngõ Yên Thái, tớ vớt nàng ra.

Quả là tôi không biết, nhưng tôi đã hiểu cái tính khí nghĩa hiệp của Quyền, cũng không lạ.

- Thế sao lại thành ngư ông A Châu?

- Mấy thằng ngồi bàn giấy trong xưởng kia cũng dân thành phố ra mà chó lại chê mèo dài đuôi, chúng nó cứ chửi tớ tiểu tư sản. Tớ bảo: ông đây học sinh trường kỹ nghệ, ông gốc công nhân, chúng mày là công nhân vỏ. Ai là công nhân thì không biết sợ. Ông đố đứa nào dám bỏ cái xưởng này ra rừng kiếm ăn hay chỉ ngồi gãi bút đẽo cơm nhà nước. Ông không thèm nhìn mặt chúng mày nữa. Thế là tớ ra đây đánh cá. Chẳng cần thằng chó nào.

Một lát, thu lưới, được mấy con chép nhỡ. Quyền nói: "Đầu đuôi nấu dấm quả dọc. Còn thì chặt khúc nướng uống rượu hay lắm".

Tôi diễu:

- Ấy, cút kỵ rượu kia mà.

- Có lúc cũng cần rượu.

Chốc đã mấy chục năm qua. Rồi cũng không gặp Quyền trở lại Hà Nội. Và cũng chẳng nghe ai nói. Biết có còn sống, vẫn đánh cá ở Ao Châu hay đi đâu.

Dung thì tôi có biết tin. Cơ quan tôi cái năm mới ra khỏi thành phố lên ở Đại Từ trên Thái Nguyên, rồi Bắc Cạn. Một hôm có người cơ quan ở xóm bên cạnh - chỗ cục quân nhu đóng, sang hỏi và nói: "Có đồng chí Dung bên chúng tôi... - À, họa sĩ Dung... - Vâng ạ. - Tôi quen...Có, có, tôi sang, tôi sẽ sang... Thế ra Dung đã đi bộ đội, bộ đội quân nhu. Dung vẽ mẫu áo trấn thủ, áo cổ vuông... Có thể Dung đã làm to... có lính sang hỏi trước... và họa sĩ Dung, đồng chí Ngô Thúc Dung...

Nhưng rồi không nhớ tôi đã bận gì, mấy hôm sau mới sang được xóm có cơ quan quân nhu đóng. Trông những nhà kho, những lán trống hốc. Vào trong xóm hỏi, bà con cũng chỉ biết bộ đội đã đi rồi, đi bí mật lúc nửa đêm. Bộ đội thì lúc đi lúc đến thường kín đáo như thế. Nhưng rồi tôi biết thủ trưởng cơ quan ấy là Trần Dụ Châu mới bị bắt vì tội hống hách tiêu pha bán giời không văn tự đến thụt két. Tôi chột dạ: Trần Dụ Châu đâu có phải là Ngô Thúc Dung. Đi kháng chiến, người ta hay lấy bí danh. Tôi lẩm cẩm quá lo cho Dung, cái tai nghễnh ngãng mới nghe Châu ra Dung thế.

Đến khi hòa bình, lại được tin Dung. Có người thấy, có người gặp Dung ở Hà Nội rồi. Không phải Dung ở bộ đội, mà Dung cũng không làm họa sĩ nữa. Dung bây giờ bán vé xe điện, Dung nghiện thuốc phiện nặng.

Tôi nhớ Dung cũng như tôi nhớ cái tàu điện, Dung và cái tàu điện, những kỷ niệm đã già lão của tôi. Cái tàu điện có gốc gác và sự tích chẳng khác con người đã sinh ra ở thành phố này. Tàu điện khi mới sinh ra đi từ Bưởi xuống Chợ Mơ, qua Bờ Hồ thì có đường rẽ về Giám vào Hà Đông. Hơn ba mươi năm sau mới đẻ ra quãng đường ô Đồng Lầm ở Kim Liên lên ô Yên Phụ. Đường tàu điện đầu tiên ra đời năm 1899 - hơn tôi già hai mươi tuổi, câu chuyện về cái tàu điện tôi được nghe kể và tôi đã hát suốt thời tấm bé.

Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành

Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường.

Các cụ kể cái năm cưới tàu điện, các làng hai bên đường tàu một tháng đi tàu không mất tiền. Ngày khai trương tàu, ngày cưới tàu cũng như ngày cưới chợ mới linh đình sao. Tây mở hội nhảy đầm, đốt pháo ở sân đình Thụy, nơi có La ga thì ở Thụy Chương. Cả vùng Bưởi ngồi tàu điện xuống Bờ Hồ chơi. Cái câu cuối bài vè chẳng biết là nói mỉa mai hay nói ba lơn. Năm xu ngồi ghế đệm bông. Hỏi mình có sướng hay không, hả mình?

Cái tàu làm đẹp con đường cũng như người thanh niên làm dáng không bao giờ lên tàu khi tàu đỗ, mà chúng tôi lấy điệu lả lướt nhảy tàu nhẹ nhàng khi tàu lượn vào hay tàu ra bến.

Cái tàu điện lâu ngày cũng già đi như người, nhưng còn rong ruổi đến những năm Hà Nội đánh nhau với tàu bay Mỹ. Tàu qua các phố Hàng Than, Quan Thánh cạnh nhà máy điện nơi máy bay Mỹ thả bom bất kỳ lúc nào. Tàu chạy đúng giờ đi giờ nghỉ, nhưng không còn khách dám ngồi tàu qua các phố ấy. Chỉ còn người lái tàu, người bán vé và một người hát xẩm trong lòng tàu vẫn hát nghêu ngao, giữa tiếng bánh xe rít trong đường sắt, tiếng chuông kenh kenh, chẳng biết có tiếng bom không.

Cái tàu điện rồi khuất núi tương tự ông lão bệnh già. Cái tàu cái toa bỏ đi rồi mới bóc đường sắt, như người ta đem thiêu giường chiếu người ốm. Nó cũng như cái cầu Long Biên sau mấy năm bom đạn già yếu lại bị thương chỉ có xe đạp và người đi bộ qua, khác nào trẻ con cưỡi trên lưng, ấy cũng là khi cái tàu điện rách rưới tả tơi nhất. Nó ốm cả tinh thần và thể xác. Không biết số phận còn để vật vờ thế này đến bao giờ, chẳng ai thiết đến nó, chẳng ai chữa chạy cho nó nữa. Những người nhà tàu thì say rượu, say bia cả ngày. Tay ông lái cầm cái quay máy bằng đồng đã mòn vẹt. Cứ tàu đến Hàng Khay, Hàng Bài thì đỗ. Ven hè, những nơi ấy có quán bia nhà mậu. Ông lái vặn lại số không, rút cái trùy đồng xách xuống đứng uống hai vại bia. Mỗi chuyến ngừng mấy nơi, có khi đến chợ Mơ đỗ đợi khách lâu thì cả ông lái, ông bán vé cùng xuống làm chén nước trắng, lại hãm điếu thuốc lào đậm khói. Ấy thế mà cái tàu điện già mõm ra vẫn làm đỏm, những cái toa đuôi sơn đỏ rợn mắt. Bởi vì xưa nay trong xưởng máy ở Thụy chỉ có việc xẻ gỗ đóng toa, còn đầu máy và bánh tàu phải mua bên Tây mà mấy chục năm nay nghỉ mua rồi, chỉ còn máy móc từ thế kỷ trước.

Cái sự giã đám tan hoang tất cả. Tàu không bán vé, xé vé nữa. Khách lên tàu đưa tiền công cho ông lái, cho người soát vé, cho ai thì người ấy bỏ túi. Người đi tàu thưa thớt lắm. Đã hết máy bay bắn phá nhiều năm rồi mà những cái tàu không hồi sức lại được. Nó chậm như con rùa bò.

Tôi chẳng còn nhớ đến họa sĩ Dung đâu. Chỉ vì một hôm chợt nghĩ: Cái tàu đã ốm quá vừa đi vừa thở thế kia, xuống lỗ đến nơi rồi. Thử đi tàu dối già một chuyến. Lại nhảy tàu lên xuống như thuở nào. nghĩ thế thôi, tôi đã lụ khụ chẳng khác cái tàu, mà tôi thì không muốn chết đưa chân vào bánh tàu.

Thế là tôi đi tàu điện về Bưởi. Người bán vé như vẫn đứng rình chộp tôi lên rồi lừ đừ hiện ra, giọng nói khao khao mơ hồ: "Tiền vé nào?". Tôi trông đích nó là thằng Dung, họa sĩ Dung. Khác lắm, nhưng không thể sai được. Khuôn mặt bệu chảy xị, tái mét, môi nhẵn bóng, cửa tay áo về vệt đen nhãy. Rõ một lão bẹp tai. Chẳng còn họa sĩ Dung một chút nào. Nhưng mà khác sao được, cái sẹo vẫn đỏ tía như đồng xu áp thái dương bên trái như người tội chết bị thích số lên mặt.

- Dung đấy hả? Có phải Dung?

Người ấy ngước đôi mắt lờ đờ nhìn tôi rồi lại cất cái giọng rè rè:

- Tiền vé nào!

Tôi đưa tiền vé. Lão cầm bỏ vào túi cái áo vét, rồi lù rù đi vào trong lòng tàu, trong khi tôi vẫn còn hỏi dở câu: "Có phải họa sĩ...".

Biết thế nào, chán đến nỗi không còn muốn nhận ra nhau nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Top